sinh vật biển

Khám Phá Bí Mật Về Các Loài Sinh Vật Biển

4.9/5 - (9 bình chọn)

Đại dương xanh biếc là ngôi nhà của muôn loài sinh vật biển, từ những vi tảo siêu nhỏ cho đến động vật to lớn nhất trên hành tinh này là cá voi xanh. Hãy cùng nhìn vào bức tranh đại dương vô cùng sinh động với những sinh vật biển nhé!

Các Loài Sinh Vật Biển Bạn Nên Biết

1. Các Loài Sinh Vật Biển Bạn Nên Biết

Sinh vật biển là các loài động vật, thực vật, vi khuẩn, vi-rút rất đa dạng sinh sống trong thế giới đại dương. Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng sự sống bắt nguồn từ đại dương từ khoảng 3 tỉ năm trước.

Một nghiên cứu rất lớn mới đây 2012 cho rằng có khoảng hơn 700,000 cho đến gần 1 triệu loài sinh vật biển, các nhà khoa học tin rằng hơn 1/3 trong số chúng vẫn chưa được phát hiện và có khả năng sẽ được phát hiện trong thế kỉ này.

Môi Trường Sống Của Sinh Vật Biển

2. Môi Trường Sống Của Sinh Vật Biển

Sinh vật biển xuất hiện với đủ mọi hình dáng, kích cỡ và màu sắc khác nhau; chúng sống tại những môi trường khác nhau trong đại dương bao la.

Nếu coi đại dương là một miếng bánh, các sinh vật sẽ phân bố tại 5 tầng bánh khác nhau, tùy thuộc vào lượng ánh sáng, nhiệt độ và độ sâu của những tầng bánh này. Dù ở bất cứ đâu trong đại dương, chúng ta cũng đều tìm thấy sự sống.

Vùng biển khơi trung mesopelagic: đọ sâu từ khoảng 200 – 1000m, nơi này chỉ tiếp nhận ít ánh sáng. Nhiệt độ nước ở đây lạnh hơn so với tầng khơi mặt. Những loài sống ở đây thường là các loài giáp xác và nhiều cơ như tôm, cua.

Vùng biển khơi sâu bathypelagic: độ sâu từ khoảng 1000 – 4000m. Nơi đây luôn luôn tối đen, nhiệt độ nước lạnh và chỉ có một số loài động vật sinh sống.

Hầu hết động vật ở đây có tỉ lệ trao đổi chất thấp do vùng nước thiếu chất dinh dưỡng, có làn dan mong manh, ít cơ bắp và cơ thể trơn trượt.

Một số loài tiêu biểu bao gồm: mực, sao biển, bạch tuộc, cá rắn viper, do thiếu sáng, những loài động vật sống ở đây có đôi mắt nhỏ hoặc không có mắt, không thể nhìn thấy con mồi, vì thế chúng thích nghi bằng cách phát triển miệng rộng và răng dài ra, ví dụ như con lươn gulper. Cá tại đây di chuyển chậm và có mang khỏe để lấy ôxy từ nước.

Vùng biển khơi sâu thẳm abyssalpelagic: độ sâu từ 4000 – 6000m. Nhiệt độ ở vùng biển này dưới 2 độ C, nước mặn, áp lực nước cao.

Nhưng vẫn có sự sống tồn tại ở đây, ví dụ như sâu biển, nhím biển. Khá nhiều loài có phát quang sinh học.

Vùng đáy vực khơi tăm tối hadalpelagic: độ sâu từ 6000-10000m, là nơi sâu nhất, tăm tối nhất và lạnh lẽo nhất của đại dương. Chỉ có rất ít sinh vật tồn tại ở đây, như hải sâm, nhện biển, bọt biển.

Nguồn Thức Ăn Của Sinh Vật Biển

3. Nguồn Thức Ăn Của Sinh Vật Biển

Cũng giống như sinh vật trên cạn, các sinh vật biển cũng có quan hệ dinh dưỡng với nhau, gọi là chuỗi thức ăn. Trong đó, loài đứng trước là thức ăn của loài đứng sau.

Mỗi loài được coi là một mắt xích trong chuỗi thức ăn. Trong hầu hết các trường hợp, mỗi loài vừa là sinh vật tiêu thụ mắt xích phía trước, vừa là sinh vật bị mắt xích phía sau tiêu thụ. Cụ thể, một chuỗi thức ăn gồm có

Sinh vật sản xuất là sinh vật tạo ra chất hữu cơ từ chất vô cơ. Chúng sử dụng nguồn năng lượng mặt trời hoặc năng lượng từ các phản ứng hóa học để tổng hợp chất hữu cơ.

Chúng gồm có thực vật phù du, cỏ biển, tảo biển,… Sinh vât sản xuất thường được coi là điểm bắt đầu của một chuỗi thức ăn.

Sinh vật tiêu thụ là các sinh vật không thể tự tạo ra chất hữu cơ mà phụ thuộc vào các sinh vật khác.

Sinh vật tiêu thụ bậc một là các loài ăn thực vật. Những loài này gồm các động vật phù du, các ấu trùng của cua, nhuyễn thể, cá, đến những loài lớn hơn như rùa xanh.

Sinh vật tiêu thụ bậc hai là những loài động vật ăn thịt, tiêu thụ các sinh vật tiêu thụ bậc một. Tầng thức ăn này bao gồm các loài động vật lớn như mực, các loài cá.

Chúng ăn các loài động vật tiêu thụ bậc một như cá nhỏ, nhuyễn thể và các động vật phù du.

Sinh vật tiêu thụ bậc ba, bậc bốn là những loài có thể ăn sinh vật tiêu thụ bậc hai, cũng có thể là ký sinh trùng sống trên sinh vật tiêu thụ bậc hai hoặc loài ăn xác chết.

Chúng là một nhóm động vật đa dạng bao gồm các loài cá có vây như cá mập, cá ngừ, cá voi, các loài chim biển như chim cánh cụt, hải âu và các loài động vật biển da trơn như hải cẩu, hải tượng. Sinh vật phân hủy là những vi khuẩn, nấm,… từ các sinh vật đã chết.

Ví dụ, một chuỗi thức ăn đơn giản ở biển: Thực vật phù du -> Động vật phù du -> Cá nhỏ -> Cá thu -> Cá heo nục -> Cá mập lớn.

Một tập hợp các các chuỗi thức ăn có chung nhiều mắt xích tồn tại tạo thành một mạng lưới thức ăn dày đặc.

Bạch Tuộc

4. Vì Sao Bạch Tuộc Thuộc Loại Sinh Vật Biển Quái Dị

Bạch tuộc nhìn qua thì quả là quái dị: 8 chân, 3 tim, máu màu xanh. Nhưng tất cả vẫn chưa phải yếu tố khiến chúng trở thành loài quái dị nhất đâu.

Khi nghĩ về một sinh vật được xem là kỳ dị nhất, nhiều người sẽ lựa chọn một loài côn trùng nào đó, hoặc nhện, hoặc ít ra phải cỡ loài gấu nước với khả năng tiệm cận sự bất tử.

Nhưng không, danh hiệu ấy được khoa học trao cho một sinh vật biển. Đó là bạch tuộc, kể ra thì bản thân bạch tuộc cũng là một loài kỳ dị thật.

Chúng có đến 3 trái tim, máu màu xanh lam, có khả năng tự hồi phục xúc tu nếu bị đứt. Chưa hết, chúng có khả năng nguỵ trang thượng thừa, và đặc biệt là cực kỳ thông minh đến mức biết sử dụng công cụ để phục vụ cho cuộc sống của mình.

Tuy nhiên, tất cả những điều trên chưa đủ để biến bạch tuộc thành loài kì dị nhất hành tinh này. Nguỵ trang và mọc lại bộ phận đã mất? Tắc kè cũng làm được! Giun đất thì có đến 5 trái tim, trong khi tinh tinh cũng có thể sử dụng công cụ khi cần thiết.

Thứ khiến bạch tuộc trở nên khác biệt nằm ở một chỗ khác. Đó là khả năng tự điều chỉnh, tự thiết kế lại các ARN trong cơ thể, và khả năng này đã có trước khi con người hiện đại xuất hiện khoảng 200.000 năm.

Lý do nào tạo ra khả năng này thì chưa ai rõ, nhưng theo các nhà khoa học, bạch tuộc ngày nay điều chỉnh ARN là để phục vụ sinh tồn khi nhiệt độ môi trường thay đổi.

Sinh Vật Biển Bị Ảnh Hưởng Do Khi Hậu

5. Sinh Vật Biển Bị Ảnh Hưởng Do Khi Hậu

Dự báo đến cuối thế kỷ 21, đại dương sẽ mất đi gần 20% số sinh vật biển do biến đổi khí hậu. Đây là ước tính của các nhà khoa học vừa đưa ra trên tạp chí Mỹ Proceedings of the National Academy of Science.

Theo nghiên cứu, nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thêm 3 – 4 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp thì 17% số sinh vật biển – từ sinh vật phù du nhỏ bé đến những chú cá voi nặng 100 tấn – sẽ biến mất.

Ngay cả trong kịch bản tốt nhất là thế giới hạn chế được mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C theo mục tiêu của Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, số lượng sinh vật biển sẽ giảm 5% Trong điều kiện nhiệt độ này, các loài san hô phát triển ở vùng nước nông, cung cấp môi trường sống cho khoảng 30% số sinh vật biển, được dự báo sẽ biến mất gần như hoàn toàn.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nhiệt độ Trái Đất cứ tăng thêm 1 độ C thì số lượng sinh vật biển sẽ giảm thêm 5%.

Đến nay, nền nhiệt toàn cầu đã tăng thêm 1 độ C và tiến tới đến năm 2100 sẽ tăng thêm khoảng 4 độ C. Cũng theo nghiên cứu, một số khu vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn so với những nơi khác. Tại các vùng nhiệt đới, số sinh vật biển sẽ giảm 40 – 50% do biến đổi khí hậu.

Các nhà khoa học nhấn mạnh tương lai của các hệ sinh thái biển sẽ phụ thuộc nhiều vào tình trạng biến đổi khí hậu. Các đại dương hấp thu hơn 20% khí gây hiệu ứng nhà kính do con người phát thải vào không khí.

Tuy nhiên, việc tích lũy toàn bộ lượng CO2 cũng khiến nồng độ axit trong nước biển tăng cao hơn, đe dọa làm mất cân bằng hệ sinh thái biển. Nghiên cứu trên có sự đóng góp của 35 chuyên gia đến từ hàng chục quốc gia trên thế giới.

cá chình
Bí Ẩn Tại Sao Cá Chình Có Môi Trường Sống Đặc Biệt Vậy
20 Tháng mười hai, 2020
câu cá thu
Chia Sẻ Kinh Nghiệm Bí Quyết Câu Cá Thu Của Cần Thủ Các Nước
18 Tháng mười một, 2020
cá cơm
Những Gì Bạn Không Biết Về Loài Cá Cơm
20 Tháng mười hai, 2020

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *